“Mọi tranh luận về quy định đều phá bỏ ý tưởng cha mẹ và phụ huynh có thể tin tưởng trẻ em có khả năng tự đưa ra quyết định hợp lý.” Những quy định cấm sử dụng smartphone mạnh tay, ngăn chặn việc tiếp cận với cộng đồng và xã hội, dù là qua ứng dụng MXH,
“đều sẽ gặp phải sự phản đối hay căm ghét của đám nhỏ.” Thứ có giá trị hơn là những lựa chọn mặc định tốt hơn cho trẻ em, và lời khuyên của phụ huynh:
“Chính bản thân chúng ta cũng sợ việc phải hướng dẫn con, chính người lớn còn cần được hướng dẫn nữa là.”
Kể từ khi smartphone phổ biến đầu thập niên 2010, đúng là có thực trạng tăng tỷ lệ mắc những bệnh lý tâm thần ở đối tượng thanh thiếu niên phương Tây, nhưng nguyên nhân không chỉ đơn thuần là nhận thức của các bạn nhỏ được mở rộng quá nhanh nhờ MXH. Tình trạng thanh thiếu niên tự hại (self-harm) và tự sát cũng đã tăng mạnh ở Anh và Mỹ kể từ đầu thập niên 2010. Cũng có những quốc gia đi ngược xu hướng này, Pháp chẳng hạn. Những khảo sát của PISA thì cho thấy, ở độ tuổi 15, tình trạng cảm thấy bản thân cô đơn ngày một tăng cao.
Bà Livingstone cho rằng: “Số liệu trong quá khứ mà tôi cảm thấy đáng tin cậy, là có sự chuyển dịch kể từ sau thế chiến thứ II, con người chịu đựng những vấn đề từ bên trong bản thân dần nhiều hơn những vấn đề từ bên ngoài. Đúng là có tình trạng trẻ em cảm thấy cô đơn tăng cao, tình trạng bệnh lsy tâm thần tăng lên, v.v… Nhưng cùng lúc, chúng ta cũng thấy tỷ lệ thanh thiếu niên vi phạm pháp luật giảm đi, việc trẻ dưới 18 tuổi sử dụng đồ uống có cồn cũng giảm, tỷ lệ mang thai ở độ tuổi vị thành niên cũng giảm. Đó là hệ quả của việc một thế hệ đang rất thận trọng, có vấn đề gì là tự ôm hết vào trong thay vì bộc phát ra ngoài.”
Những cuộc phỏng vấn với trẻ em của giáo sư Livingstone cho thấy, trẻ em có cảm giác “bị người lớn gây thất vọng.” Chúng nói rằng điện thoại giờ là công cụ theo dõi tin tức chủ yếu, nhưng cũng là nguồn cung cấp những thông tin giả mạo, những lo âu hoảng loạn và cả việc mất đi tiếng nói của bản thân: “Điều đó khiến chúng bị ngợp, chúng bị ép chịu trách nhiệm vì những gì đang diễn ra, nhưng vấn đề là chúng chẳng làm được gì cả.”
Jonathan Haidt gọi thế hệ sinh sau năm 1996 là “thế hệ âu lo.” Nhưng sự âu lo thậm chí đã bắt đầu với những thế hệ hiện giờ làm cha làm mẹ, bị phụ huynh ngăn cấm không cho chơi ở ngoài vì sợ nguy hiểm. Thập niên 1990, bà Livingstone để ý tới tỷ lệ trẻ em khi ấy có TV trong phòng ngủ. Ngay từ thời điểm đó lớp thanh thiếu niên 8x 9x đã khẳng định là thích chơi ở ngoài hơn, nhưng không được phép.
Trái ngược quan điểm này, là số liệu của cơ quan quản lý viễn thông Ofcom (Office of Communications). Năm 2021 ở Mỹ, trẻ vị thành niên trung bình bỏ ra 3.5 giờ đồng hồ mỗi ngày trên mạng xã hội. Còn ở Anh Quốc, 25% trẻ em 5 đến 7 tuổi có smartphone. 30% trong số đó xem TikTok. Nhiều ông bố bà mẹ cũng có quan điểm có phần hoảng sợ vì thấy con mình cả ngày ngồi nhắn tin và xem video trên điện thoại. Nhưng họ cũng hiểu là không thể ngắt con mình khỏi smartphone, vì bạn bè ở trường đều ở trên đó.
Bà Livingstone khẳng định: “Đám nhỏ không biết tự rời mắt khỏi điện thoại, thật thế sao? Tôi đã quan sát ở trường học, 4h chiều tan học, đám nhỏ trò chuyện sôi nổi, chẳng thấy đứa nào rút điện thoại ra cả.”
Điều mà Jonathan Haidt và Sonia Livingstone đồng tình, đó là trẻ em cần nhiều thời gian và điều kiện để được tự do chơi và khám phá ở bên ngoài, dù là ở công viên hay những trung tâm vui chơi. Nhưng trái ngược với Haidt, bà Livingstone không tin vào những biện pháp kiểm soát thời gian dùng smartphone, vì cho rằng chúng không thực tiễn. Lấy ví dụ theo bà Livingstone, bố mẹ mệt, cho con nhỏ nghịch điện thoại 30 phút không vấn đề gì. Nhưng cùng lúc phụ huynh phải làm gương hướng dẫn cho con cách dùng điện thoại hiệu quả. Và quan trọng nhất, là cấm theo dõi con bằng GPS. Khi ấy lòng tin sẽ không còn.
Hoàn toàn có thể tìm ra những cách để khuyến khích các bạn nhỏ tìm đến những tác vụ tích cực trên mạng internet, chỉ đơn giản lên Google tìm kiếm “những thứ vui vẻ cha mẹ có thể làm cùng con trên mạng” là được.
Những nghiên cứu của bà Livingstone mô tả những vấn đề mà các gia đình có con nhỏ hay ở lứa tuổi thanh thiếu niên đang phải đối mặt. Ngay cả khi ở độ tuổi nhỏ, cha mẹ đặt ra quy định, nhưng rất khó để thực hiện nghiêm túc quy định ấy, đặc biệt là khi có đứa thứ hai hoặc thứ ba. Một khi mạng xã hội đã xuất hiện trong cuộc sống trẻ em, rất khó để ngăn cấm.
Ở đây, cần nhấn mạnh vai trò của cơ quan quản lý. Ở Anh Quốc, Ofcom là “cơ quan quản lý truyền thông có nguồn lực tốt và thành thạo về mặt kỹ thuật nhất hành tinh.” Tuần trước, cơ quan này đã phác thảo cách tiếp cận dự thảo luật của họ để điều chỉnh và quản lý những tính năng gây nghiện cũng như có hại của nền tảng.
Ofcom có thể sẽ có hiệu quả trong việc giảm khả năng trẻ em tiếp xúc với những nội dung khiêu dâm và tự làm hại bản thân. "Họ có thể thu hút sự chú ý bằng cách kiểm soát những thuật toán, kiểm soát các mạng xã hội, từ chỗ hiển thị nội dung kiểu “tôi lo lắng về cân băng của mình”, đẩy người xem sang những nội dung “hướng dẫn có vòng bụng thon gọn hơn.”"
Cơ quan quản lý thì muốn các dịch vụ trực tuyến phải mạnh tay hơn trong việc kiểm tra độ tuổi người dùng. Anh Quốc trước đây từng từ bỏ nỗ lực xác minh độ tuổi người dùng tài khoản dịch vụ trực tuyến, chẳng hạn như có thể yêu cầu người lớn cung cấp thông tin thẻ tín dụng, thì mới được truy cập những trang web 18+. Bà Livingstone cho rằng ý tưởng này có thể được hồi sinh.
Rồi cũng có những vấn đề khác, chẳng hạn như việc trẻ em bị ngợp trong những group trò chuyện lớn. Dưới áp lực chính trị của các nhà lập pháp và các cơ quan quản lý, Meta, chủ sở hữu WhatsApp vừa có những thay đổi, chẳng hạn như giúp trẻ em chặn tin nhắn từ bên ngoài danh bạ của chúng dễ dàng hơn. Nhưng tình hình hiện tại vẫn là những tác động trái chiều. Năm nay, Meta đã giảm độ tuổi tối thiểu được sử dụng WhatsApp ở EU và Anh Quốc từ 16 xuống 13.
Theo bà Livingstone, quyết định này “không phải vì có nhà tâm lý học nào đó khẳng định 13 là độ tuổi phù hợp để trẻ em sử dụng WhatsApp, mà bởi vì mọi ứng dụng khác đều cho trẻ 13 tuổi sử dụng, thêm người dùng là thêm dữ liệu, rồi từ đó tăng doanh thu và lợi nhuận.”
Ở khía cạnh game online có loot box mua và mở đúng kiểu đánh bạc, bà Livingstone muốn các công ty phản ứng nhanh hơn trước những lo ngại của các bậc cha mẹ, yêu cầu những hãng game ngừng cho phép trẻ em tiêu tiền thật trong tài khoản game của chúng. Trong điều kiện lý tưởng, chính sách sẽ dựa trên bằng chứng dữ liệu của các tập đoàn. Nhưng công nghệ không đứng yên một chỗ, các tập đoàn luôn chần chừ trong việc giao nộp dữ liệu, vì thế biện pháp phòng ngừa, cấm tuyệt đối việc trẻ dưới 18 tuổi tiếp cận loot box có thể là hợp lý.