Đầu thập niên 1950, Joseph Grado, vốn là một nghệ nhân đồng hồ tại Tiffany & Co., đã quyết định nghỉ việc, về nhà để tự sản xuất ra những chiếc phono cartridge chất lượng cao dành cho mâm đĩa vinyl, ngay trên bàn ăn trong bếp nhà ông. Sau khi nhìn thấy có một thị trường đầy hấp dẫn dành cho phono, ông quyết định đóng cửa luôn tiệm bán trái cây của gia đình ở góc phố, và mở ra Grado Labolatories.
Cũng nhờ quyết định táo bạo này, ngài Grado đã phát minh ra phono moving coil đầu tiên cho hệ thống stereo thay vì một loa mono, năm 1959. Rồi những thành tựu khác khi ấy được Grado tạo ra, là thân vỏ cartridge được xử lý để giảm thiểu tối đa rung lắc bên trong, thứ gây ra cộng hưởng, giảm chất lượng âm thanh. Cũng từ đó, “Grado sound” thành hình, thứ âm thanh ấm áp, không móp méo và vô cùng chính xác.

Trong suốt quãng thời gian làm việc của Joseph Grado từ 1953 tới 1989, “công ty” đã tạo ra cartridge mâm đĩa than, loa, mâm đĩa và cả tonearm cho mâm. Nhưng giờ, chỉ còn một sản phẩm duy nhất còn được sản xuất và bán tới tận ngày hôm nay, là những cartridge, kim đọc đĩa than cao cấp. Từng có thời điểm giữa thập niên 1980, đỉnh cao của Grado, Joseph và mọi người sản xuất 10 nghìn cartridge mỗi tuần. Nhưng cũng chỉ vài năm sau khi thời kỳ nhạc CD và cassette đến, cả năm họ chỉ sản xuất được 12 nghìn cartridge.
Những gì diễn ra sau đó, cuộc lột xác “công ty gia đình” do người cháu, John Grado thực hiện, tạo ra những cặp tai nghe được nhiều anh em yêu mến có lẽ nên trở thành câu chuyện cho một ngày khác. Còn về bản thân ngài Joseph, câu chuyện chẳng khác gì trong những bộ phim. Tình yêu với các thiết bị âm thanh, rồi chỉ với hai bàn tay, ông đã tạo ra được những tiêu chuẩn vàng cho ngành âm thanh HiFi
Không giống như hầu hết tất cả những cái tên trong bài viết này, khi công ty thiết bị âm thanh đều được sáng lập với cái tên của họ. Còn trong khi đó, Henry Kloss, và người thầy của ông, Edgar Villchur không lấy tên của họ để thành lập công ty. Nhưng nhà sản xuất loa HiFi mà họ sáng lập lại là cái tên được rất rất nhiều thế hệ người Việt yêu mến: Acoustic Research, Inc.

Hãy nói về Edgar Villchur trước đi. Sau thế chiến, ngài Villchur, trước đó sửa chữa radio và radar trong quân đội, xuất ngũ và mở một cửa hàng sửa chữa radio ở Greenwich Village, New York, cùng với đó là tự tay lắp ráp những dàn âm thanh HiFi cho khách. Mang tấm bằng chuyên ngành lịch sử mỹ thuật, Villchur phải tự học thêm kỹ thuật điện và điện tử, rồi cả toán học và kỹ thuật ở đại học New York.
Rồi rất nhanh chóng, ông phát hiện ra rằng, mắt xích yếu nhất trong những dàn âm thanh tại gia chính là những cặp loa. Amplifier, thiết bị phát hay bộ dò sóng radio thường có khả năng đảm bảo sự chính xác của tín hiệu âm thanh. Nhưng loa thời ấy thì khác. Driver dải trầm thường không có khả năng tái tạo lại những nốt trầm của nhạc cụ một cách chính xác, thường bị méo tiếng.

Villchur khi ấy nghĩ ra một ý tưởng giảm đáng kể méo tiếng, bằng cách thay thế lò xo cơ học phi tuyến tính bằng đệm khí tuyến tính. Thiết kế được đặt tên là treo âm học (acoustic suspension) của ông tạo ra áp suất âm thanh ở dải 25Hz chính xác hơn mọi loại loa có mặt trước đó, từ thiết kế phản xạ âm trầm cho tới loa kèn lớn.

Với lý thuyết này, hai thầy trò Villchur và Kloss đi đến quyết định, họ sẽ tự sản xuất loa dựa vào kiến thức mà họ có, vì theo họ, các hãng lớn, có tên tuổi khi ấy sẽ không quan tâm tới phát minh này. Vậy là năm 1954, hai thầy trò sáng lập Acoustic Research (AR) ở Cambridge, Massachusetts. Đến năm 1957, Henry Kloss tách riêng để thành lập KLH, mua bản quyền thiết kế treo âm của AR để sản xuất loa.
Trong vòng hai thập kỷ kế tiếp kể từ lúc AR được thành lập, hầu hết mọi hãng loa lớn khác đều dần dần chuyển từ thiết kế treo cơ học sang treo âm học, trả tiền bản quyền sở hữu trí tuệ cho Acoustic Research. Gọi hai thầy trò là những người thay đổi hoàn toàn khía cạnh kỹ thuật của ngành thiết bị âm thanh, có lẽ không phải nói quá.

Một ví dụ khác của việc một nhạc công tài ba nỗ lực theo đuổi sự chính xác của âm thanh trong những hệ thống HiFi. Mark Levinson từng là tay guitar bass cho nghệ sĩ jazz Paul Bley từ năm 1966 tới năm 1971. Năm 1972, ông thành lập Mark Levinson Audio Systems ở New Haven, Connecticut. Gần như ngay lập tức, preamp LNP-2 đã đánh dấu khả năng của hãng.

Ở cái thời kỳ một chiếc preamp cao cấp có giá chỉ 500 USD, Mark đi đến ý tưởng, một chiếc preamp giá 2000 USD sẽ làm tốt hơn rất nhiều. Và Mark đã đúng.
Chỉ có một điều đáng tiếc, như rất nhiều nghệ sĩ tài năng với năng khiếu thẩm mỹ, nghệ thuật và cả kiến thức kỹ thuật, khả năng kinh doanh của Levinson không thực sự là thứ được đánh giá cao. Đến đầu thập niên 1980, công ty Mark Levinson gặp khó khăn, còn bản thân Mark thì xung đột với một nhà đầu tư. Nhà đầu tư này sau đó thậm chí còn khởi kiện để cấm Mark làm việc trong ngành thiết bị âm thanh. May mắn là tòa án xử Mark thắng kiện, nhưng ông không được phép lấy tên mình đặt cho bất kỳ thương hiệu và công ty nào ông thành lập sau này nữa.
Còn hiện tại, Mark Levinson được Harman Kardon mua lại, giờ công ty mẹ chính là Samsung Electronics. Họ vẫn sản xuất những thiết bị âm thanh ở phân khúc high end, với những ampli giá 2, 300 triệu Đồng, power amp có khi giá tiền tỷ.

Không có tài năng thiên phú để chơi nhạc, nhưng Frank McIntosh không thiếu kinh nghiệm và kiến thức kỹ thuật để đem những âm thanh đẹp đến với các dàn HiFi, với tấm bằng toán học và kỹ thuật radio. Những kiến thức này giúp ông có được một chân biên tập viên tại tạp chí lâu đời Popular Mechanics.
Bước ngoặt đến vào giữa những năm 1940. Khi làm cố vấn tại Washington D.C., McIntosh được giao nhiệm vụ mua sắm thiết bị âm thanh chất lượng cao cho các đài phát thanh và truyền hình. Thất vọng vì các ampli hiện có không đáp ứng được công suất và độ rõ nét của âm thanh mà ông yêu cầu, McIntosh quyết định dấn thân vào một dự án mang tính cách mạng, tự chế tạo amplifier của riêng mình.
Năm 1946, ông McIntosh mời Gordon Gow làm cộng sự mở công ty. Cùng nhau, họ đặt mục tiêu phát triển một amplifier với khả năng định hình lại ngành công nghiệp âm thanh. Sản phẩm đầu tiên của họ, McIntosh 50W-1, không chỉ là một bộ khuếch đại, mà còn là sản phẩm Hi-Fi đầu tiên tích hợp công nghệ Unity Coupled Circuit tiên tiến của McIntosh.

Đột phá này đã dẫn đến việc Phòng thí nghiệm McIntosh chính thức được thành lập vào năm 1949, với Frank McIntosh làm chủ tịch và Gordon Gow làm phó chủ tịch. Thành công của công ty đòi hỏi một không gian rộng hơn, thúc đẩy họ chuyển đến một tòa nhà mới ở Binghamton, New York, vào năm 1951. Tòa nhà này tọa lạc tại số 2 phố Chambers, vẫn là trụ sở của công ty cho đến tận ngày hôm nay.


Một trong những nhà sáng chế, kỹ sư đi đầu trong ngành thiết bị âm thanh Mỹ có tên thật là James Martini. Chỉ cần nhìn chữ viết tắt của ông, là có thể đoán ra ngay thương hiệu mà ông sáng lập: JBL.
Thập niên 1920, James làm việc ở Salt Lake City, là một kỹ sư phục vụ cho một đài radio. Tại đây, ông gặp Ken Decker, người sẽ trở thành đối tác của ông sau này. Cũng trong khoảng thời gian này, ông đổi tên thành James Lansing. Năm 1927, Lansing và Decker chuyển tới Los Angeles, thành lập công ty sản xuất loa, đặt tên là Lansing Manufacturing Company.
Một trong những thành tựu lớn của Lansing là hệ thống âm thanh phục vụ trong rạp cho hãng phim MGM ở thập niên 1930. Thành quả nghiên cứu là hệ thống loa Shearer, thứ đã giành được tượng vàng Oscar từ Viện hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ.

Nhưng rồi khó khăn đến ngay lập tức. Như mọi lần, một kỹ sư dày dặn kinh nghiệm chưa chắc đã là một nhà kinh doanh giỏi. Năm 1939, đối tác của Lansing, Ken Decker, một sĩ quan dự bị của không quân Mỹ, tử nạn trong một vụ tai nạn máy bay. Khó khăn trong kinh doanh ngay lập tức ập tới. Sau đó, năm 1941, Altec Service Corporation mua lại Lansing Manufacturing Company, đổi tên thành Altec Lansing. Nhờ đó, Lansing lại được thoải mái theo đuổi việc thiết kế và kỹ thuật.
Nhưng rồi Lansing bất đồng với George Carrington, và muốn rời đi. Thời điểm Altec mua lại Lansing, hai bên có thỏa thuận quý ông, trong vòng 5 năm Lansing không được mở công ty mới và chuyển ra ngoài làm việc. Giữ đúng lời hứa, năm 1946, James B. Lansing Sound, Incorporated. được thành lập, về sau được viết tắt thành JBL. Năm 1947, JBL D-130 ra mắt, driver mô tả khả năng sáng tạo, chất lượng và sự chú trọng chi tiết của JBL. Bên trong nó là một cuộn dây 4 inch phẳng, đặt trong transducer hình nón.
Nhưng cái kết của James Lansing thực sự vô cùng bi thảm. Chỉ ba năm sau khi thành lập JBL, tình hình kinh doanh tồi tệ, kết hợp với tình trạng cá nhân xuống dốc, Lansing tự vẫn vào ngày 29/9/1949. William H. Thomas tiếp quản công ty, và chính ông mới là người tạo ra thành công của JBL, khi liên tục cho ra đời những sản phẩm tạo tiếng vang lớn ở thập niên 1950 và 1960.

Năm 1925, Sidney Shure thành lập coongty của riêng mình, Shure Radio Company. Khi ấy, nó là một công ty một thành viên đúng nghĩa, chỉ có Sidney chứ chẳng có ai khác, làm việc trong một căn phòng ở trung tâm Chicago, thuê mỗi tháng 5 USD khi ấy. Căn phòng đương nhiên không hề phô trương, vì Sidney làm hết: Điều hành, lễ tân, kho và vận chuyển.

Đến năm 1928, công ty đã phát triển lên hơn 75 nhân viên, và anh trai của Sidney, Samuel J. Shure, đã gia nhập công ty, sau đó đổi tên thành công ty Shure Brothers. Công ty chuyển đến văn phòng mới tại số 335 phố West Madison ở Chicago. Năm 1929, với sự bùng nổ của cuộc Đại suy thoái và sự gia tăng nhu cầu về radio do nhà máy sản xuất, Công ty Shure Brothers buộc phải cắt giảm đáng kể nhân sự và trở thành nhà phân phối độc quyền tại Mỹ của một nhà sản xuất micro nhỏ. Năm 1930, Samuel J. Shure rời công ty.

Năm 1931, Sidney Shure và kỹ sư Ralph Glover bắt đầu phát triển micro Shure đầu tiên, và năm sau đó, Micro driver Carbon, Model 33N ra mắt, đưa Shure trở thành một trong bốn nhà sản xuất micro duy nhất tại Hoa Kỳ. Micro tụ điện, micro tinh thể và hệ thống treo micro đầu tiên của Shure (mà họ đã nhận được bằng sáng chế đầu tiên) đều được giới thiệu trong cùng thập kỷ đó. Năm 1939, Shure giới thiệu micro Unidyne Model 55, sau này trở thành một trong những micro được biết đến nhiều nhất trên thế giới.

Năm 1941, Shure được quân đội Mỹ đặt hàng cung cấp micro trong Thế chiến II, và đến năm 1942, T-17B đã trở thành micro được Lục quân và Hải quân Hoa Kỳ sử dụng rộng rãi nhất. Shure cũng sản xuất micro đeo cổ, micro đeo tai và micro đeo mặt nạ dưỡng khí, đồng thời áp dụng Tiêu chuẩn Quân sự Hoa Kỳ cho tất cả micro Shure.

Chiến tranh kết thúc, nhưng Shure thì không dừng việc sáng tạo và đổi mới. Họ phát triển và sản xuất cartridge phonograph cho các nhà sản xuất máy hát đĩa ở giữa và cuối thập niên 1940. Rồi thậm chí họ còn có cả ống nghe y tế, máy trợ thính. Năm 1953, Shure ra mắt hệ thống microphone không dây đầu tiên cho các nghệ sĩ. Rồi đến năm 1965, SM57 huyền thoại ra mắt, kế đến là SM58.